Thi sĩ trở về nhà sau khi sống 10 năm trong nhiều nhà tù cải tạo, có lúc thốt lên lời cầu cho phép lạ xẩy ra: Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi!
Chúng ta có thể tưởng tượng, khi trở về thành phố cũ nhà thơ thấy khung cảnh cuộc đời chung quanh đã thay đổi như thế nào (Mười năm thế giới già trông thấy... Mười năm người tỏ mặt nhau đây... Mười năm chớp bể mưa nguồn đó... Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay...) Nhà thơ tự nhìn thân phận mình, “Ta về như giấc mơ thần bí” giữa một thế giới không những đã trở thành hoàn toàn xa lạ mà còn như một cơn mộng dữ bị quỷ ám. Cho nên, trong cơ mê thảng thốt, nhà thơ tự nhủ mình, “Ta về khai giải bùa thiêng yểm,” rồi bỗng nhiên thốt lên câu thần chú: “Thức dậy đi nào gỗ đá ơi!”
Làm sao cho gỗ đá biết thức dậy? Tại sao phải hô thanh hoán vũ yêu cầu gỗ đá thức dậy? Có thể vì nhìn thế giới chung quanh thấy toàn những gỗ đá vô tri.
Ở thời đại nào chúng ta cũng nên lắng nghe các thi sĩ. Vì họ nhìn thấy những hình ảnh thật hiện ẩn hiện đằng sau cuộc sống trong xã hội. Thấy bao nhiêu là gỗ đá. Toàn là gỗ đá. Khô. Cứng. Không có sự sống. Không thấy tình cảm. Một xã hội đang hóa thạch. Lòng người đã hóa thạch, trơ ra, khô cứng. Người đối xử với người như gỗ đá. Người đi đường nhìn nhau thấy chỉ là gỗ đá. Thi sĩ là tiên tri. Họ kêu lên bằng những tiếng nói lạ. Họ là những tiếng kê trong đồng vắng: Thức dậy đi nào gỗ đá ơi! Thi sĩ không “nhân cách hóa” gỗ đá. Ngược lại, mong gỗ đá trở lại làm người.
Như thế nào là một xã hội biến thành gỗ đá? Ông Trần Quốc Việt viết trên blog talawas mô tả xã hội Việt Nam vào năm 2009, 24 năm sau khi thi sĩ viết những câu thơ trên: “...Cho nên ở Việt Nam có cảnh một em bé bị chủ của quán phở hành hạ dã man bao năm trời mà không ai lên tiếng. Cảnh đám người hiếu kỳ dửng dưng nhìn người bị đụng xe nằm trên đường phố. Cảnh đám đông bị lùa vào các quán cơm tù ngay khi các xe khách ghé vào. Cảnh đánh ghen mà nạn nhân bị lột trần truồng, bị xúc phạm thân thể trước hàng trăm cặp mắt thờ ơ bên lề. Cảnh bao thiếu nữ lui tới các nơi phá thai công khai như đi chợ.”
Trần Quốc Việt chưa kể đến những chuyện gần đây hơn: Ngày 8 Tháng Mười Hai, 2009, khi trong giờ giảng bài, giáo viên Ðặng Ngọc N. ở Bình Phước bị một học sinh lớp 10A9 lấy mã tấu trong cặp sách xông lên bục giảng chém nhiều nhát vào vai, vào lưng. Trước đó, ngày 1 Tháng Mười Hai, thầy Hoàng Minh Luận, giáo viên môn thể dục tại xã Ðắk Ơ, huyện Bù Gia Mập, Bình Phước cũng bị côn đồ xông vào trường chém trọng thương.
Tại sao đạo lý trong xã hội xuống thấp đến như vậy? Trần Quốc Việt giải thích: “Chế độ toàn trị sống được là nhờ bạo lực và dối trá. Hai cái này hợp lại và, qua thời gian, đã bào mòn dần các lớp men lương tâm tích lũy từ thời sơ khai...” Một chế độ không có lương tâm biến xã hội thành khô, cứng, mất cả những xúc động bình thường của loài người. Ông viết thêm: “Nhân phẩm đã bị hủy diệt từ rất lâu... trong thời gian quá dài so với đời người, cho nên các sự kiện đàn áp tôn giáo vừa qua là giọt nước cuối cùng làm tràn cái ly vô lương tâm của chế độ khi nó dùng bạo lực trấn áp giới tu sĩ và những người thực hành tôn giáo.” Nhắc đến vụ chính quyền cộng sản Việt Nam đàn áp các tăng ni ở tu viện Bát Nhã, Ông Trần Quốc Việt viết: “Biến cố Bát Nhã là đỉnh cao của bạo lực vì làm tổn thương đến nền văn minh tâm linh và đạo lý của con người.”
Bạo lực không diễn ra qua gậy gộc, giáo mác, gươm súng. Bạo lực lên tới đỉnh cao nhất khi nó hiện ra trong tâm con người. Những người đã bị guồng máy biến thành gỗ đá vô tri mà không tự biết. Vì thế, khi nói, khi làm, họ vô tình “làm tổn thương đến nền văn minh tâm linh và đạo lý của con người.”
Khi nghe Ðinh Quang Anh Thái phỏng vấn một ni cô trong nhóm tăng ni Bát Nhã xuất gia ở Tu Viện Bát Nhã, Lâm Ðồng và đang tị nạn ở chùa Phước Huệ, Bảo Lộc, chúng ta có thể cảm thấy có những người công an đã biến thành gỗ đá. Ni Cô trả lời điện thoại ngày 10 Tháng Mười Hai, năm 2009, trong lúc nhóm côn đồ đang tấn công chùa bằng khẩu hiệu và biểu ngữ, bao vây Thượng tọa trụ trì. Hàng trăm công an chìm giả làm thường dân đang hô hoán những lời lăng mạ và treo những biểu ngữ đòi đuổi gần 200 tăng ni Bát Nhã còn sót lại đi nơi khác. Ni Cô nói các “các cô chú công an” đó hỏi những tăng ni trẻ tuổi rằng, “Tại sao các cô chú còn trẻ như thế mà đã đang tâm bán nước?” Ni Cô không thể hiểu họ muốn nói gì!
Bán nước? Gần 200 tăng ni phần lớn chưa tới 20 tuổi muốn sống đơn giản, giữa hạnh nguyện trang nghiêm, thanh tịnh. Họ không nghĩ xấu về ai, không nói, không làm tổn thương đến ai, gọi những người đến xua đuổi, đánh đập mình là “các chú công an.” Họ cũng chưa hề ra khỏi nước Việt Nam một lần, không có nhu cầu tiền tài, danh vọng, quyền hành nào để thúc đẩy họ phải bán nước! Tại sao các cô chú công an này vu cho họ tội “Bán nước?” Họ đâu có khả năng “Bán nước” như các người lãnh đạo vẫn ca ngợi “Tình hữu nghị Việt Trung đời đời xanh tươi bất diệt” trong lúc chính quyền Bắc Kinh cho lính đánh đập, cướp bóc các ngư phủ Việt Nam tránh bão cập thuyền vào hòn đảo thuộc Hoàng Sa vốn của Việt Nam?
Những người công an chìm nổi tấn công các tăng ni Bát Nhã bằng cái tâm bạo lực đã hô lên hai tiếng “Bán nước” mà không suy nghĩ, chắc cũng không biết mình nói dối, đáng hổ thẹn. Họ đã được biến thành gỗ đá. Những người đã ra lệnh cho công an làm việc đó, chính họ cũng đã biến thành gỗ đá.
Không thể nói vụ đàn áp tăng ni Bát Nhã là một hành động đơn lẻ xuất phát từ địa phương nữa. Ðây là một chính sách được chỉ đạo từ Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam.
Lúc đầu, họ tấn công tu viện Bát Nhã nhưng gán cho một vụ tranh chấp nội bộ giữa hai nhóm Phật Giáo, lấy cớ vị viện chủ tu viện đuổi các tăng ni này đi. Khi các chùa khác sẵn sàng đón nhận các bạn trẻ này, họ không còn lấy lý do đó được nữa, bèn bầy ra mưu khác. Họ không cho phép các chùa được cho các tăng ni này trú ngụ. Thượng Tọa Thái Thuận, viện chủ chùa Phước Huệ đã can đảm không chịu ký giấy đuổi các tăng ni thơ dại, cho nên bây giờ đảng Cộng Sản tổ chức cho công an đóng vai côn đồ đòi đuổi thượng tọa đi. Trong khi đó, vấn đề Bát Nhã đã trở thành quốc tế. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã ngỏ lời thăm và khuyến khích các tăng ni Bát Nhã chuyên cần tu tập. Nghị viện Âu Châu đã nêu vấn đề Bát Nhã khi lên án cộng sản Việt Nam vi phạm tự do tín ngưỡng. Hội nghị các tôn giáo ở Úc Châu đã xúc động khi coi triển lãm hình ảnh và lắng nghe thuyết trình về vụ Bát Nhã. Lấy lý do gì để đuổi những người trẻ tuổi chỉ muốn tu hành, chỉ niệm Phật khi bị tấn công? Họ bèn đặt ra hai chữ “Bán nước!”
Chỉ có những cán bộ “tư tưởng,văn hóa” cấp trung ương mới biết bầy ra trò vu tội này, cán bộ địa phương không có khả năng, cũng không có quyền sáng tác ra trò đó. Vì khi dùng đến trò vu vạ “Bán nước” là người ta đã sử dụng một thủ đoạn được sáng chế từ thời Hồ Chí Minh khi ông muốn tiêu diệt cán bộ các đảng phái quốc gia. Vu cho ai là “Bán nước” tức là tuyên án tử hình mà không cần tòa án. Họ đã cho tay sai giết những Khái Hưng, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Huỳnh Phú Sổ, vân vân, bằng cách đó.
Hiện nay, đảng Cộng Sản Việt Nam đang nhắm vào Thiền Sư Nhất Hạnh, người đã chính thức yêu cầu họ giải tán Ban Tôn Giáo Chính Phủ, người đã “xúc phạm” Trung Quốc khi khích lệ người dân Tây Tạng hãy noi gương người Việt Nam bền bỉ tranh đấu hàng ngàn năm, rồi có ngày cũng thoát cảnh lệ thuộc dân Hán.
Ðể triệt hạ ảnh hưởng của vị thiền sư này, Cộng Sản Việt Nam đã nghĩ ra cách dùng hai chữ “Bán nước.” Trong khi hô hoán cũng như khi viết khẩu hiệu, họ gọi các tăng ni Bát Nhã là “Tăng ni Làng Mai,” mặc dù những bạn trẻ này đã xuống tóc xuất gia tại Tu viện Bát Nhã, Lâm Ðồng. Bởi vì Làng Mai là một tu viện ở Pháp, ở ngoại quốc. Gắn cho tên gọi như vậy, dễ vu cáo họ là “gốc từ nước ngoài” hơn.
Phương pháp tu tập ở Làng Mai thực ra không mới, đó chính là phương pháp tu hành của Phật Giáo Việt Nam đã có từ thời Trần Nhân Tông, từ thời các Thiền Sư Lâm Tế, Liễu Quán, nay đem áp dụng lại. Làng Mai chính thức thuộc dòng Liễu Quán, xuất phát từ Huế, giống như nhiều tự viện ở Việt Nam. Nhưng khi gắn danh hiệu một tu viện ở nước ngoài, người ta dễ vu cáo hai chữ “Bán nước” hơn!
Ðây là một thủ đoạn có tính toán, có sách lược, phải do trung ương chỉ đạo. Những anh chị em công an vậng lệnh vu cáo các tăng ni Bát Nhã tội “Bán nước” họ không biết gì cả. Họ đã được huấn luyện để biến thành gỗ đá. Những người Việt đứng ngoài bàng quan tọa thị không thấy xúc động trước cảnh chế độ bạo tàn cấm đoán và đàn áp các người tu hành, chính họ cũng đã biến thành gỗ đá. Cũng giống như những người trơ mắt nhìn “cảnh một em bé bị chủ của quán phở hành hạ dã man bao năm trời mà không ai lên tiếng. Cảnh đám người hiếu kỳ dửng dưng nhìn người bị đụng xe nằm trên đường phố” như ông Trần Quốc Việt đã kể. Ông Trần Quốc Việt giải thích hiện tượng “lương tâm hóa thạch này: “Quyền lực xui khiến những kẻ bên trên cam tâm đi ngược lại hướng tiến hóa của lương tâm con người, còn sự sợ hãi làm đa số ở phía dưới câm lặng và nhẫn nhục trước bao cảnh bất công cá nhân trong đời thường, rồi tiếp tục ngoảnh mặt trước những cảnh bất công lớn hơn ngoài xã hội, rồi dần biến thành một đám đông thầm lặng cùng khiếm khuyết một phần lương tâm bình thường, như lương tâm bình thường của người dân trong các nước theo thể chế dân chủ và tự do.
Trong tình cảnh đó, tiếng chuông đại hồng do các tăng ni Bát Nhã thỉnh lên báo động chùa Phước Huệ bị tấn công chính là những tiếng chuông tỉnh thức lương tâm của tất cả mọi người. Ông Trần Quốc Việt viết, “Qua các vụ trấn áp tôn giáo gần đây, đặc biệt qua sự hành xử của chế độ trong vụ Bát Nhã, niềm hy vọng về một sự thức tỉnh lương tâm trong tầng lớp cầm quyền của chế độ đã thành ảo vọng.”
Nói như vậy quá bi quan. Chúng ta phải tin tưởng trong mỗi con người đều có “nhất điểm lương tâm. Như Nguyễn Du từng thấy đá có khả năng chia sẻ những xúc động với con người, “Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.” Gỗ và đá cũng có khi tỉnh dậy làm người. Cho nên, cứ theo lời thi sĩ kêu gọi: Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi!
Chú Thích: Các câu thơ in nghiêng trong bài này trích từ bài “Ta Về” của Tô Thùy Yên, viết năm 1985.
Bài bình luận của Ngô Nhân Dụng - Thức dậy đi nào gỗ đá ơi!
Thursday, December 10, 2009
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
0 Góp ý kiến:
Post a Comment